
NHÂN GIỐNG LOÀI RÂU HÙM (TACCA CHANTRIERI ANDRE) BẰNG PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG SINH DƯỠNG Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO, TUYÊN QUANG
Author(s) -
Hải Nguyễn Thị,
Vân Trần Thị Thanh,
Mai Chu Quỳnh
Publication year - 2021
Publication title -
khoa học
Language(s) - Vietnamese
Resource type - Journals
ISSN - 2354-1431
DOI - 10.51453/2354-1431/2020/383
Subject(s) - chemistry , stereochemistry , nuclear chemistry
Râu hùm (Tacca chantrieri Andre) là loài cây thuốc quý, có công dụng chữa bệnh thấp khớp, dùng uống trị viêm loét dạ dày và hành tá tràng, viêm gan, huyết áp cao, bỏng lửa, lở ngứa…[7,10]. Mặc dù chưa bị khai thác nhiều quá mức song nạn phá rừng và khai thác rừng đã trực tiếp làm thu hẹp diện phân bố và khả năng trữ lượng tự nhiên của cây. Việc nghiên cứu nhân giống loài Râu hùm nhằm bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc của tỉnh Tuyên Quang. Kết quả nghiên cứu nhân giống Râu hùm bằng phương pháp sinh dưỡng cho thấy, hom giâm ở các vị trí hom khác nhau (hom ngọn, hom giữa và hom gốc) có kích thước 10cm cho tỷ lệ sống cao hơn, trong đó hom giữa (kích thước 10cm) sau 30 ngày, 60 ngày và 90 ngày đều cho kết quả cao nhất với các giá trị tương ứng về tỷ lệ hom sống (95,9%, 78,5% và 67,8%). Hom giữa (10cm) cho số chồi/hom cao nhất. Khi nhân giống Râu hùm bằng hom giữa (10cm) có sử dụng các chất kích thích sinh trưởng và nồng độ sử dụng các chất đó tới tỷ lệ sống và ra rễ cho thấy: sau 90 ngày, công thức cho tỷ lệ sống cao nhất là hom xử lý IAA với nồng độ 1500ppm đạt 100%, cao hơn nhiều so với đối chứng. Tiếp đến là IBA với tỷ lệ 98,5%, còn lại α-NAA có sự tác động lên hom giâm thấp nhất. Loại chất kích thích sinh trưởng và nồng độ sử dụng đã ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ ra rễ và số rễ trung bình/hom, khi nồng độ tăng từ 500ppm lên đến 1000ppm, đặc biệt lên đến 1500ppm thì tỷ lệ ra rễ và số rễ trung bình/hom có xu hướng tăng theo. Công thức 9 với chất kích thích IBA ở nồng độ 1500ppm cho tỷ lệ cao nhất.