
THÀNH PHẦN LOÀI VÀ CÁC CHỈ SỐ ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA KHU HỆ NHỆN TRÊN RUỘNG LÚA HUYỆN TRI TÔN, AN GIANG
Author(s) -
Minh Q. Dinh,
Thư Thị Anh Trần,
Khanh Tuấn Nguyễn
Publication year - 2019
Publication title -
tạp chí khoa học đại học quốc gia hà nội: khoa học tự nhiên và công nghệ (vnu journal of science:natural sciences and technology)
Language(s) - Vietnamese
Resource type - Journals
eISSN - 2615-9317
pISSN - 2588-1140
DOI - 10.25073/2588-1140/vnunst.4890
Subject(s) - chemistry , stereochemistry
Nghiên cứu ghi nhận được 15 loài nhện thuộc 12 giống, 6 họ dựa trên kết quả phân tích 512 cá thể thu được trong vụ hè thu và vụ thu đông ở ruộng lúa trong và ngoài đê bao thuộc địa phận xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Trong đó, ba loài nhện Argiope dang (Araneidae), Clubiona coreana (Clubionidae) và Oxyopes sertatus (Oxyopidae) lần đầu tiên được ghi nhận cho khu hệ nhện Việt Nam. Bốn loài gồm Clubiona sp., Erigone sp., Carrohtus sp. và Rhene sp. thuộc họ Clubionidae, Linyphiidae và Salticidae chỉ định danh đến bậc giống. Araneidae là họ có nhiều loài nhất với 5 loài, kế đến là họ Salticidae với 4 trong số 15 loài được ghi nhận. Hai loài nhện Araneus inustus và Oxyopes sertatus được ghi nhận trong suốt hai vụ lúa ở cả trong và ngoài đê, nhưng số lượng của loài đầu tiên chiếm ưu thế tuyệt đối với 257 cá thể, đây có thể là loài ưu thế hoặc là loài thích ứng tốt với môi trường sống. Số lượng loài nhện được ghi nhận vào vụ thu đông, trong đê (9 loài) nhiều hơn so với vụ hè thu, ngoài đê (5 loài). Chỉ số đa dạng sinh học như độ giàu loài Margalef (d), độ đồng đều Pielou (J’), Shannon-Weawer (H’) và Simpson (1-l) đạt giá trị cao nhất ở vụ thu đông, trong đê và thấp nhất ở vụ hè thu, ngoài đê. Điều này có thể do sự tác động của việc sử dụng nông dược không đều nhau giữa các vụ lúa. Năm loài nhện Argiope dang, Parawixia dehaani, Plexippus paykulli, Carrohtus sp. và Rhene sp. chỉ được ghi nhận ở ngoài đê, trong khi đó, Gasteracantha kuhli và Evarcha pococki chỉ ghi nhận được ở khu vực trong đê. Cần tiếp tục nghiên cứu khả năng thích nghi và vai trò làm thiên địch của hai loài được ghi nhận được cả trong và ngoài đê trong suốt hai vụ lúa, đặc biệt là loài ưu thế Araneus inustus.